image banner
Điều chỉnh thuế GTGT với phân bón tạo cơ hội cho doanh nghiệp trong nước
Tiếp tục phiên chất vấn tại Quốc hội, chiều 9/11, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng đã trả lời đại biểu Cao Văn Trọng (Bến Tre) về việc Chính phủ đề nghị điều chỉnh thuế suất thuế giá trị gia tăng (GTGT) mặt hàng phân bón từ 0% lên 5% để giúp cho các nhà máy sản xuất phân bón khôi phục sản xuất, giảm lỗ vì được khấu trừ chi phí đầu vào trong thời điểm hiện nay, khi người nông dân đang gặp khó khăn về hạn hán và bão lũ liệu có phù hợp hay không.

P:\Nam 2020\2. TIN BAI\Cong tac vien\2. Yen TBTC\thang 11-QH\10.11\Bo truong.jpg

Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng trả lời chất vấn tại phiên họp Quốc hội ngày 09/11

Áp thuế GTGT tạo điều kiện giảm giá phân bón trong nước

Báo cáo trước Quốc hội, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cho biết: trước ngày 1/1/2015, theo đề nghị của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNN), để tháo gỡ khó khăn cho người nông dân Bộ Tài chính đã trình với Chính phủ, Quốc hội điều chỉnh phân bón từ đối tượng chịu thuế suất GTGT là 5% về đối tượng không chịu thuế suất GTGT và các hàng hóa mua vào hoặc nhập khẩu để tạo tài sản cố định của dự án đầu tư sản xuất phân bón thì được khấu trừ hoặc hoàn thuế GTGT đầu vào.

Tuy nhiên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội không nhất trí cho phép khấu trừ hoàn thuế GTGT đầu vào với lý do là không phù hợp với nguyên tắc của thuế GTGT. Do vậy, Quốc hội đã thông qua Luật số 71 năm 2014 sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật thuế có hiệu lực từ ngày 1/1/2015, quy định phân bón thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT. Tuy vậy, quy định này lại gây bất lợi cho sản xuất phân bón trong nước do hoàn thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ mua vào không được khấu trừ và phải tính vào chi phí sản xuất, giá thành sản xuất của phân bón. Trong khi đó, phân bón nhập khẩu không chịu thuế GTGT.

Chính vì vậy, theo đề nghị của Bộ Công Thương, Bộ NN&PTNN, Hiệp hội sản xuất phân bón đã kiến nghị nhiều lần kể từ khi Luật số 71 có hiệu lực, là đưa phân bón vào đối tượng chịu thuế GTGT. Hiện nay, nếu chuyển phân bón từ đối tượng không chịu thuế GTGT sang đối tượng áp dụng thuế suất thuế GTGT là 5%, với số thuế GTGT đầu vào hằng năm của phân bón khoảng 1.200 tỷ đồng một năm thì doanh nghiệp sẽ được khấu trừ và không phải tính vào chi phí sản xuất, cũng như giá thành sản phẩm của phân bón.

Chính phủ sẽ chỉ đạo các doanh nghiệp sản xuất phân bón trong nước giảm giá bán tương ứng với giá thành để người nông dân không bị ảnh hưởng bởi điều chỉnh mức thuế GTGT này. Do đó, phân bón sản xuất trong nước có thêm điều kiện để cạnh tranh với phân bón nhập khẩu và phân bón nhập khẩu cũng phải chịu thuế GTGT là 5%. Từ đó, phân bón sản xuất trong nước có thêm cơ hội để hạ giá bán so với phân bón nhập khẩu theo cơ chế thị trường”, Bộ trưởng Bộ Tài chính khẳng định.

Cung cấp thêm thông tin tới đại biểu Quốc hội, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cho biết, theo Hiệp hội phân bón, hiện nay phân bón sản xuất trong nước đang chiếm thị phần khoảng 70%, còn lại 30% là nhập khẩu. Hiệp hội cũng ước tính, sản xuất phân super lân năm 2019 cũng như ước đạt năm 2020 mới đạt 34% công suất. Phân lân nung chảy mới đạt 37%, phân đạm urê mới đạt 83% của năng lực nhà máy sản xuất trong nước. Tương tự ở sản xuất phân DAP là 69% và phân NPK là 60%. Như vậy, việc điều chỉnh thuế suất thuế GTGT đối với phân bón sẽ tạo cơ hội để các doanh nghiệp sản xuất phân bón trong nước có dư địa để tăng công suất, tăng sản lượng và thị phần để cạnh tranh với phân nhập khẩu,

Ngoài ra, cùng với việc tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp để sản xuất trong nước bằng chính sách thuế, các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh phân bón trong nước cũng cần phải tăng cường quản trị, rà soát, tiết giảm tối đa chi phí. Từ đó, giảm giá thành và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, cũng như cạnh tranh bình đẳng với hàng hóa nhập khẩu.

Chính vì vậy, Bộ Tài chính đã báo cáo Chính phủ, trình Quốc hội dự thảo Nghị quyết về chuyển phân bón từ đối tượng không chịu thuế GTGT sang áp dụng thuế suất thuế GTGT là 5% và đã nhận được ý kiến nhất trí của Bộ Công thương, Bộ NN&PTNN, Hiệp hội sản xuất phân bón cũng như Hội nông dân Việt Nam, là những cơ quan, tổ chức trực tiếp liên quan đến ngành sản xuất phân bón nông nghiệp, nông dân và nông thôn.

P:\Nam 2020\2. TIN BAI\Cong tac vien\2. Yen TBTC\thang 11-QH\10.11\10 11.jpg

Toàn cảnh phiên họp Quốc hội ngày 09/11

Cổ phần hoá, thoái vốn công khai, minh bạch, chặt chẽ hơn

Cũng tại phiên chất vấn, đại biểu Phan Thị Bình Thuận (TP.HCM) cũng nêu câu hỏi về nguyên nhân và giải pháp về cổ phần hóa và thoái vốn chậm.

Trả lời vấn đề này, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cho biết thời gian vừa qua và đặc biệt là gần đây có nhiều nguyên nhân như là căng thẳng trong quan hệ quốc tế, diễn biến khó lường của COVID-19 đã ảnh hưởng rất lớn, nghiêm trọng đến thị trường tài chính, chứng khoán trong nước và trên thế giới, khiến cho các doanh nghiệp cổ phần hóa phải cân nhắc thời điểm phê duyệt phương án và thời điểm đưa ra để bán cổ phần.

Bên cạnh đó, cơ chế, chính sách về cổ phần hóa, thoái vốn, thời gian vừa qua cũng đã được sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh theo hướng chặt chẽ hơn, tăng cường công khai, minh bạch hơn trong quá trình cổ phần hóa và tính đúng, tính đủ giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa, hoàn thành việc xác lập hồ sơ quản lý về đất đai, tài sản trước khi cổ phần hóa. Do đó việc rà soát, phê duyệt phương án cổ phần hóa doanh nghiệp phải thực hiện nhiều quy trình, thủ tục và nhiều thời gian. Đặc biệt, vấn đề về đất đai, lịch sử pháp lý rất phức tạp. Các doanh nghiệp cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại trong giai đoạn này hầu hết các doanh nghiệp lớn có tình hình tài chính phức tạp, sở hữu nhiều đất đai hoặc các doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực công ích gắn liền với hoạt động của các địa phương, đóng góp vai trò quan trọng trong việc đảm bảo thực hiện chiến lược, mục tiêu về an sinh xã hội của địa phương nên việc cổ phần hóa, thoái vốn phải tiến hành thận trọng, đảm bảo tính đúng, tính đủ giá trị doanh nghiệp và không làm thất thoát vốn của nhà nước khi cổ phần hóa.

Về nguyên nhân chủ quan, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng nêu rõ cần phải nghiêm túc xem xét, điều chỉnh để nâng cao chất lượng, đẩy nhanh tiến độ trong thời gian tới. Thực tế, một số bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước thời gian qua chưa thực sự nghiêm túc triển khai kế hoạch cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại DNNN theo chỉ đạo của Thủ tướng.

Công tác lập kế hoạch cổ phần hóa, thoái vốn để trình cơ quan có thẩm quyền ban hành danh mục cổ phần hóa, thoái vốn còn chưa sát với thực tế.

Vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu doanh nghiệp, đơn vị còn chưa cao, chưa quyết liệt trong đổi mới hoạt động của doanh nghiệp, Tính công khai, minh bạch, đúng quy định của pháp luật, đảm bảo nguyên tắc thị trường, chống lợi ích nhóm trong cổ phần hóa và thoái vốn. Đa số các tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp không chủ động triển khai các chính sách của nhà nước, đến khi phải thực hiện cổ phần hóa mới bắt đầu thực hiện sắp xếp lại xử lý nhà đất, do đó ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ cổ phần hóa.

Việc phối hợp giữa cơ quan đại diện chủ sở hữu với các UBND các tỉnh, thành phố, bộ, ngành liên quan trong việc thực hiện, phê duyệt phương án sắp xếp lại xử lý nhà đất theo Nghị định 167 của Chính phủ làm còn chưa tốt, tiến độ còn rất chậm, đặc biệt là các cơ sở nhà đất tại thành phố lớn như Hà Nội và TP.HCM

Trong khi đó, một số doanh nghiệp không muốn thoái vốn ở những ngành, lĩnh vực phát triển mạnh, có tỷ suất lợi nhuận cao làm cho tiến độ thoái vốn chậm, tuy là đã được quy định rõ trong tiêu chí phân loại doanh nghiệp của Thủ tướng. Ngoài ra, cũng có lý do liên quan một số cơ quan, đơn vị đang thoái vốn đang bị cơ quan pháp luật thực hiện thanh tra, kiểm tra, do đó công tác cổ phần hoá, thoái vốn chậm lại.

Để khắc phục những vấn đề này, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng báo cáo nhấn mạnh một số giải pháp chính quan trọng.

Đó là, tiếp tục quán triệt sâu sắc các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp về sắp xếp, đổi mới phát triển, nâng cao DNNN theo chủ trương của Đảng, của Quốc hội và Chính phủ. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, khuôn khổ pháp lý về tổ chức, quản lý và hoạt động của DNNN về sắp xếp việc cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại DNNN theo hướng đảm bảo công khai, minh bạch theo cơ chế thị trường.

Xây dựng tiêu chí phân loại doanh nghiệp cho giai đoạn 2021-2025 và Đề án cơ cấu lại DNNN của giai đoạn 2021-2025, trọng tâm là tập đoàn, tổng công ty nhà nước, làm cơ sở tiếp tục triển khai cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN.

Các cơ quan quản lý nhà nước căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, kịp thời nghiên cứu, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách trong việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp và cổ phần hóa. Tăng cường công tác chấp hành kỷ luật, kỷ cương và xử lý nghiêm những người sai phạm, chậm tiến độ.

QH-www.mof.gov.vn

SỞ TÀI CHÍNH TỈNH LONG AN

Chịu trách nhiệm chính: Giám đốc Sở - Phạm Văn Đô
Địa chỉ: 57 Trương Định, Phường 1, TP. Tân An, tỉnh Long An 
Điện thoại: (0272) 3826 435 * Fax: (0272) 3823 987  * Email: stc@longan.gov.vn

Chung nhan Tin Nhiem Mang