Triển khai Luật Quản lý nợ công: Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay
Luật Quản lý nợ công được ban hành nhằm tiếp cận những thông lệ tốt của quốc tế, để huy động vốn kịp thời cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay, đặc biệt để phân định rõ chức năng, quyền hạn của các cơ quan trong quản lý nợ công, cũng như gắn trách nhiệm giải trình của các đơn vị quản lý và sử dụng nợ công.
Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại Trương Hùng Long phát biểu khai mạc
Hội nghị các tỉnh phía Bắc tại Hòa Bình
Trong
những ngày vừa qua (26-27/7 tại Hòa Bình và 2 – 3/8/2018 tại Đà Lạt),
Bộ Tài chính (Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại) đã phối hợp với
Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) tổ chức Hội nghị Phổ biến Quy định
Luật Quản lý nợ công và các văn bản hướng dẫn cho các đối tượng là các
Bộ, ngành Trung ương và các Sở Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, UBND các
tỉnh phía Bắc, khu vực miền Trung, Tây Nguyên và các tỉnh phía Nam, cơ
quan cho vay lại và một số đơn vị sử dụng vốn vay ODA cũng như các doanh
nghiệp được Chính phủ bảo lãnh.
Thay
vì muc tiêu huy động tối đa mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã
hội, Luật Quản lý nợ công lần này quán triệt quan điểm của Đảng và Nhà
nước là phải đảm bảo khả năng nợ công, lấy việc đảm bảo khả năng trả nợ
mới huy động vốn…
Luật
Quản lý nợ công số 20/2017/QH14 được Quốc hội thông qua có hiệu lực từ
ngày 1/7/2018, trong đó Bộ Tài chính được giao chủ trì soạn thảo 6 Nghị
định, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì soạn thảo 01 Nghị định về quản lý sử
dụng ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài. Theo Cục
trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, ông Trương Hùng Long, Bộ
Tài chính đã khẩn trương xây dựng 6 Nghị định để trình Chính phủ và đến
nay các Nghị định này đã được ban hành, kịp thời hạn hiệu lực của Luật
Quản lý nợ công từ ngày 1/7/2018. “Các Nghị định được xây dựng đảm bảo
tuân thủ quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; hướng
dẫn đầy đủ các trình tự, thủ tục có liên quan để đảm bảo thực hiện Luật
đầy đủ, kịp thời”, ông Long khẳng định.
Theo
đó, 6 Nghị định được ban hành, bao gồm: Nghị định 91/2018/NĐ-CP ngày
26/6/2018 về cấp và quản lý bảo lãnh Chính phủ; Nghị định 92/2018/NĐ-CP
ngày 28/6/2018 về quản lý và sử dụng quỹ tích luỹ trả nợ; Nghị định
93/2018/NĐ-CP ngày 30/6/2018 quy định về nghiệp vụ quản lý nợ công; Nghị
định 95/2018/NĐ- CP quy định về phát hành, đăng ký, lưu ký, niêm yết và
giao dịch công cụ nợ của Chính phủ trên thị trường chứng khoán; Nghị
định 97/2018/NĐ-CP ngày 30/6/2018 về cho vay lại vốn vay ODA, vay ưu đãi
nước ngoài của Chính phủ.
Cục
trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại cũng cho biết, với Nghị
định về quản lý sử dụng vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài của các nhà
tài trợ, hiện nay Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang trong quá trình xây dựng,
trình Chính phủ ban hành.
Theo
Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, Luật Quản lý nợ công 2017 gồm 10
chương và 63 điều, được Quốc hội XIV thông qua để thay thế Luật Quản lý
nợ công số 29/2009/QH12 nhằm tiếp cận những thông lệ tốt của quốc tế,
để huy động vốn kịp thời cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay, đặc biệt để phân định rõ
chức năng, quyền hạn của các cơ quan trong quản lý nợ công, cũng như gắn
trách nhiệm giải trình của các đơn vị quản lý và sử dụng nợ công. Ngoài
ra, Luật Quản lý nợ công cũng nhằm đảm bảo tính đồng bộ giữa chính sách
quản lý nợ công với chính sách tài khóa, tiền tệ và đầu tư công theo
quan điểm của Đảng, Nhà nước về quản lý nợ công tại Nghị quyết số 07 của
Bộ Chính trị về quản lý nợ công an toàn, bền vững, hiệu quả.
Cũng theo Cục Quản lý nợ
và Tài chính đối ngoại, so với Luật năm 2009 thì Luật Quản lý nợ công
2017 có nhiều nội dung mới nhằm bổ sung các công cụ quản lý nợ công bao
gồm kế hoạch vay trả đã được thể chế hoá đảm bảo kế hoạch tài chính 5
năm theo Luật Ngân sách nhà nước, kế hoạch đầu tư công trung hạn. Luật
đã thống nhất đầu mối quản lý nợ công, bao gồm các nguồn vay tạo nên nợ
công thì phải do Bộ Tài chính giám sát, thẩm định đánh giá, quản lý rủi
ro. Đặc biệt, Luật Quản lý nợ công 2017 dành một chương quy định đảm bảo
khả năng trả nợ công, với các khoản vay mới chỉ được thực hiện sau khi
đánh giá tác động đến quy mô, khả năng trả nợ. Đây là một chương mới.
Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại cho biết, nếu như trước đây, các quan điểm tập
trung huy động mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội, do đó đặt
mục tiêu huy động tối đa mọi nguồn lực. Đến nay, việc huy động vốn với
mức tăng cao hàng năm và phải trả hàng năm nên trên quan điểm của Đảng
và Nhà nước lần này phải đảm bảo khả năng nợ công, lấy việc đảm bảo khả
năng trả nợ mới huy động vốn. Do vậy, Luật đã thể chế hóa quan điểm này.
Các khoản vay mới phát sinh phải được đánh giá khả năng trả nợ trong
trung hạn. Các khoản vay này khi phát sinh gắn với nợ công thì phải được
đánh giá đến chỉ tiêu an toàn nợ công…
Toàn cảnh Hội nghị
Cùng với đó, Luật Quản lý nợ công 2017 siết chặt hơn việc cho vay lại, cụ thể:
Thứ nhất, phân loại ra theo hướng nhà nước chỉ chịu rủi ro đối với các đối tượng chương trình cần ưu tiên của Chính phủ. Việc
cho vay này thông qua hệ thống ngân hàng chính sách của nhà nước. Còn
với ngân hàng thương mại thực hiện theo nguyên tắc thị trường, tức là
cho vay và yêu cầu các ngân hàng phải chịu rủi ro. Điều này đồng nghĩa
với việc các ngân hàng ứng xử với các dự án giống như nguồn của ngân
hàng huy động đem cho vay. Ngân hàng thương mại có quyền giải ngân, kiểm
soát các khoản giải ngân, tài sản đảm bảo, quyền trích các khoản nợ,
các dự phòng rủi ro và ứng xử như các khoản của ngân hàng.
Thứ hai, các điều kiện liên
quan đến tín dụng từ đánh giá, thẩm định dự án ban đầu, đến giải ngân,
thu nợ, kiểm soát tài sản đảm bảo, xử lý rủi ro dự án thì ngân hàng
thương mại trực tiếp giải ngân khoản vay đó thì có quyền thực hiện, tức
là sẽ tiến sát hơn với các nguyên tắc tín dụng để đến lúc nào đó khi
chúng ta không còn khoản vay ưu đãi nữa, sẽ chuyển hoàn toàn sang khoản
vay thị trường, khi đó ngân hàng ứng xử với các dự án này cũng như các
nguyên tắc tín dụng bình thường.
Vì vậy, theo Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, với những đơn vị được cho vay lại cần lưu ý một số điểm sau:
Thứ
nhất, các đơn vị được cho vay lại cần lưu ý đến tính chất của khoản vay
và cơ chế kiểm soát của Chính phủ. Bởi tính chất của khoản vay mang
tính thương mại nhiều hơn, sát thị trường hơn, như vậy
việc tính toán khả năng hoàn trả, hiệu quả, rủi ro thì các chủ dự án
hay cơ quan đi vay phải thận trọng bởi nó khác với các khoản vay trước
đây có thời gian dài, lãi thấp.
Luật mới quy định rõ ngay từ khâu đề xuất danh mục dự án thì các Bộ, ngành, địa phương
phải tính toán được các yếu tố tài chính để gửi Bộ Tài chính đánh giá
tính ưu đãi khoản vay, tác động nợ công, cơ chế tài chính của khoản vay
đó, Nhà nước cấp phát bao nhiêu hay cho vay lại 100%?.
Thứ hai là, lưu ý đến từng dự án liên quan đến từng nhóm
đối tượng, ngân sách nhà nước, đơn vị sự nghiệp, thì ngoài dự án còn
phải chịu sự điều chỉnh của Luật Ngân sách nhà nước, Luật Đầu tư công từ
kế hoạch, trung hạn, hàng năm, bội chi ngân sách Trung ương và địa
phương, hạn mức nợ…
Thứ
ba, các yêu cầu về tín dụng với khoản vay siết chặt hơn và tiến sát
nguyên lý tín dụng, do đó khi vay phải tính toán kỹ. Các địa phương khi
làm kế hoạch ngân sách 2019 thì phải lưu ý đến việc xây dựng kế hoạch
giải ngân của các khoản vay nước ngoài. Vì kế hoạch vay nước ngoài gắn
liền với bội chi địa phương. Số bội chi này sẽ được cấu phần trong phần
nợ của địa phương được thông qua.
Bên
cạnh đó, Luật Quản lý nợ công 2017 cũng quy định một số điều khoản xử
lý rủi ro. Phải có biện pháp chế tài để phòng ngừa xử lý rủi ro, đảm bảo
khả năng trả nợ cũng như nhằm công khai, minh bạch gắn với trách nhiệm
giải trình của các đơn vị quản lý và sử dụng vốn vay…
Hoài Thu - www.mof.gov.vn