Việc triển khai các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 đã đạt những kết quả tích cực, góp phần thực hiện các mục tiêu tăng trưởng bền vững, phát triển kinh tế, ổn định xã hội và đảm bảo an ninh, an toàn tài chính quốc gia. Bước sang giai đoạn 2021 - 2030, thế và lực của nền kinh tế Việt Nam có nhiều chuyển biến, bối cảnh trong nước và quốc tế đang diễn biến phức tạp đòi hỏi phải có những cải cách để tiếp tục đạt được các mục tiêu về phát triển bền vững, đến năm 2030 cơ bản trở thành nước công nghiệp hiện đại, có mức thu nhập trung bình cao.

Kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh và ổn định hơn. Ảnh minh họa: HMT
Cải thiện chất lượng tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế: Giai đoạn 2011 - 2020, kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh và ổn định hơn, đồng thời chất lượng tăng trưởng đã được cải thiện tích cực. Bình quân giai đoạn 2011 - 2019, tăng trưởng GDP đạt 6,3%, tuy thấp hơn so với mục tiêu đặt ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 (7 - 8%), nhưng so với nhiều nền kinh tế, đặc biệt là so với các nước trong khu vực ASEAN, Việt Nam luôn nằm trong nhóm các nước có mức tăng trưởng cao nhất, đạt trên 6%/năm. Nhờ đó, thu nhập bình quân đầu người năm sau cao hơn năm trước, bình quân giai đoạn 2011 - 2019 đã đạt 2.125 USD, năm 2019 cao gấp 1,79 lần so với năm 2011, điều này đã đưa Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình. Quy mô tăng trưởng của nền kinh tế cũng đã tăng hơn 2 lần, từ 116 tỷ USD (năm 2010) lên 250 tỷ USD (năm 2019).
Chất lượng tăng trưởng: Chất lượng tăng trưởng được cải thiện rõ nét nhờ năng suất lao động ngày một tăng lên. Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng GDP đạt 46,11% trong năm 2019, bình quân 4 năm 2016 - 2019 đạt 44,46%, cao hơn so với giai đoạn 2011 - 2015 (33,58%). Như vậy, mục tiêu đóng góp TFP vào tăng trưởng 35% trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 hoàn toàn có thể đạt được. Năng suất lao động có sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm, đồng thời Việt Nam là quốc gia có tốc độ tăng năng suất lao động cao trong khu vực ASEAN. Bình quân 3 năm 2016 - 2018, năng suất lao động tăng 5,62%/năm, cao hơn so với mức tăng bình quân 4,3%/năm của giai đoạn 2011 - 2015, đạt mục tiêu Nghị quyết số 27/NQ-CP (tăng trên 5,5%).
Ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì các cân đối lớn của nền kinh tế: Trong những năm đầu của giai đoạn 2011 - 2020, nền kinh tế đối mặt với lạm phát cao; tuy nhiên, Chính phủ đã thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và phối hợp tốt hơn với chính sách tài khóa. Tốc độ tăng giá tiêu dùng giảm mạnh, từ 18,13% năm 2011 xuống còn 0,6% vào năm 2015. Giai đoạn 2016 - 2019, lạm phát được kiểm soát khá tốt, luôn thấp hơn so với mục tiêu Quốc hội đề ra hằng năm.
Cán cân thương mại cũng được cải thiện chuyển từ thâm hụt sang thặng dư. Xuất khẩu tăng nhanh trong khi nhập khẩu được kiềm chế, hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng nên cán cân thương mại được cải thiện rõ rệt. Năm 2019, tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu hàng hóa đạt 516,96 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 263,45 tỷ USD, tăng 8,1% so với năm 2018. Đáng chú ý, xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước phát triển mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng đạt 17,7%, cao hơn nhiều so với khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (4,2%). Cán cân thương mại hàng hóa thặng dư 9,9 tỷ USD, mức cao nhất trong giai đoạn 2016 - 2019.
Việc điều hành các công cụ chính sách tiền tệ được triển khai đồng bộ, chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, đồng thời bảo đảm thanh khoản của các tổ chức tín dụng tốt, ổn định được tỷ giá, lãi suất theo chiều hướng giảm dần trong khi môi trường thế giới nhiều biến động, góp phần kiểm soát tiền tệ để không tạo ra áp lực gia tăng lạm phát. Kết quả là, dự trữ ngoại hối tăng lên; tỷ giá giao dịch của các ngân hàng thương mại diễn biến trong biên độ cho phép, thanh khoản ngoại tệ toàn hệ thống tốt.
Định hướng trong chính sách tài chính
Chính sách tài chính góp phần rất quan trọng trong việc thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Để thực hiện có hiệu quả mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp hiện đại, có mức thu nhập trung bình cao, giai đoạn 2021 – 2030 chính sách tài chính cần có một số định hướng như sau:
Thực hiện chính sách tài khóa và tiền tệ linh hoạt, chủ động, đảm bảo duy trì, củng cố và ổn định kinh tế vĩ mô; thúc đẩy và tăng cường tính minh bạch của các thông tin tài chính ngân sách; thực hiện có kết quả các giải pháp đảm bảo an ninh, an toàn tài chính quốc gia, giảm dần bội chi NSNN; tăng cường và nâng cao năng lực dự báo trong lĩnh vực tài chính, ngân sách.
Hệ thống thu ngân sách phải có kết cấu phù hợp, có sự cân đối về cơ cấu thu giữa các khoản thu, đảm bảo quy mô thu ngân sách có sự biến động thấp nhất trước các biến động của nền kinh tế vĩ mô. Đảm bảo tính đa dạng trong động viên nguồn lực tài chính, bao gồm cả nguồn lực công và nguồn lực tư nhân trong và ngoài nước.
Đảm bảo hài hòa mối quan hệ tài khóa giữa các cấp ngân sách, đảm bảo vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương cùng với việc nâng cao vai trò, trách nhiệm giải trình, tính chủ động của ngân sách địa phương trong việc sử dụng các nguồn lực tài chính tại địa phương cũng như tính thống nhất của hệ thống ngân sách.
Giữ vững an ninh, an toàn của nền tài chính quốc gia, từng bước giảm dần mức bội chi NSNN, ngân sách thường xuyên luôn có thặng dư để có thể giúp nền kinh tế ứng phó được các tác động bất lợi từ bên ngoài. Các chỉ tiêu nợ công, nợ chính phủ và nợ nước ngoài nằm trong giới hạn đề ra và được giám sát chặt chẽ. Nâng cao kỷ luật tài khóa, đảm bảo việc phân bổ nguồn lực được thực hiện theo các mục tiêu ưu tiên.
Thúc đẩy cơ chế tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công cùng với việc đa dạng hóa nguồn lực xã hội phát triển dịch vụ công. Thực hiện tính đúng, tính đủ giá dịch vụ công theo lộ trình, chuyển đổi căn bản cơ chế phân bổ, sử dụng nguồn lực NSNN cho khu vực dịch vụ sự nghiệp công, chuyển sang hình thức đặt hàng, đấu thầu các dịch vụ sự nghiệp công nhằm tạo sự cạnh tranh bình đẳng, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa dịch vụ sự nghiệp công. Tăng cường phân cấp và tăng tính tự chủ tự chịu trách nhiệm trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ, sử dụng nguồn nhân lực và nguồn lực tài chính của các đơn vị cung ứng dịch vụ sự nghiệp công.
Tập trung phát triển đồng bộ thị trường tài chính, đảm bảo thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm và thị trường các dịch vụ tài chính, phát triển lành mạnh, hiệu quả, tiếp cận gần hơn với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế, đưa thị trường chứng khoán trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn chủ đạo của nền kinh tế.
Tăng cường cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp; mở rộng ứng dụng công nghệ - thông tin, tăng cường tích hợp, kết nối chia sẻ thông tin dữ liệu với các bộ, ngành, địa phương. Tăng cường cải cách và thực nghiêm quy định về kiểm soát đối với thủ tục hành chính thuộc các lĩnh vực tài chính như bảo hiểm, chứng khoán, NSNN, giá, kế toán, kiểm toán… nhằm tạo môi trường đầu tư thuận lợi, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, đảm bảo minh bạch và nâng cao hiệu quả giám sát của xã hội.
Viện CL&CSTC - www.mof.gov.vn